Tiểu sử Nỗ_Nhĩ_Cáp_Xích

Tên của Nỗ Nhĩ Cáp Xích viết theo văn tự Mãn Châu là (ᠨᡠᡵᡤᠠᠴᡳ). Có nhiều cách phiên âm Latinh tên gọi này, như Nurgaci, Nurhachi, Nurhaci (phổ biến nhất), hoặc Nu-er-ha-chi. Trong các tài liệu của nhà Minh, tên ông được chép là Đồng Noa Nhi Cáp Xích (童奴兒哈赤 hay 佟奴兒哈赤), tài liệu Hán văn của Nhà Lý Triều Tiên chép tên ông là Lão Ất Khả Xích (老乙可赤) hoặc Noa Nhi Cáp Xích (奴兒哈赤). Tài liệu Hán văn của nhà Thanh còn chép thêm các dị bản tên ông là Nỗ Nhĩ Hạp Xích[2] (努爾合赤), Nỗ Nhĩ Cáp Tề[3] (努爾哈齊) hoặc Nỗ Nhĩ Cáp Cơ (努爾哈奇).

Nỗ Nhĩ Cáp Xích sinh năm 1559 tại Hách Đồ A Lạp, một vùng ven sông Tô Khắc Tố Hộ (Suksuhu, nay thuộc thôn Lão Thành, trấn Vĩnh Lăng, huyện tự trị dân tộc Mãn Tân Tân, Phủ Thuận, Liêu Ninh, Trung Quốc). Cha ông là Tháp Khắc Thế (Taksi, 塔克世, phiên âm Hán Việt: Tháp Khắc Thế hoặc Tác Tha Thất), thuộc bộ lạc Giác La. Mẹ ông không rõ tên, là con gái của Vương Cảo (王杲. Wangao), là Hữu vệ chỉ huy sứ Kiến Châu Nữ Chân.

Dòng dõi của Nỗ Nhĩ Cáp Xích vốn là hậu duệ của Tả vệ chỉ huy sứ Kiến Châu Nữ Chân Mang Ca Thiếp Mộc Nhi (Möngke Temür)[4], ông nội ông là Giác Xương An (Giocangga, 覺昌安, cũng Tác Khiếu Trường) được kế thừa chức vụ [Tả vệ chỉ huy sứ Kiến Châu Nữ Chân], cùng với con trai Tháp Khắc Thế, tham gia đội quân địa phương của tổng binh Lý Thành Lương của nhà Minh. Vì thế, gia đình ông rất có uy tín trong bộ tộc.

Mẹ ruột của ông mất sớm khi ông mới 10 tuổi, sau đó cha ông lấy vợ kế, là người bộ tộc Hỉ Tháp Lạp thị (喜塔腊, Hitara). Do mẹ kế khắc nghiệt nên ông và em ruột Thư Nhĩ Cáp Tề đã sớm sống tự lập, đến tuổi trưởng thành thì theo cha và ông nội đầu quân cho Lý Thành Lương. Chính thời gian đầu quân cho Lý Thành Lương mà Nỗ Nhĩ Cáp Xích bắt đầu tiếp cận với văn hóa Hán. Ông học và đọc nhiều sách Hán, biết về sự hưng vong của các triều đại, đọc nhiều về binh pháp. Đặc biệt, tương truyền ông rất hâm mộ bộ Tam Quốc diễn nghĩa và nghệ thuật quân sự của ông đều học từ bộ tiểu thuyết này.